Chuyển giá ....và chống chuyển giá
Chuyển giá là thủ thuật của công ty mẹ ở nước ngoài. Công ty mẹ này sẽ thành lập một công ty con ở nước khác. Sau đó, công ty con sẽ mua nguyên vật liệu với giá cao ngất ngưỡng. Điều này sẽ làm các nhà cung cấp nguyên vật liệu sẽ sẵn sàng bán cho các công ty con này. Các công ty con sau khi sản xuất ra sản phẩm lại bán với giá thấp ra thị trường để cạnh tranh, một phần sản phẩm thì bán về cho công ty mẹ với giá thấp này. Kết quả là công ty con sẽ bị lỗ dẫn đến không đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước. Còn công ty mẹ thì mua được hàng giá rẻ và bán với giá bằng giá thị trường nước ngoài.
Trường hợp khác là nước công ty mẹ chịu thuế cao còn nước công ty con chịu thuế thấp. Khi bán hàng ở nước của công ty con và chuyển lợi nhuận cho công ty mẹ. Công ty mẹ sẽ không đóng thuế do đã nộp thuế ở nước của công ty con.
Kết quả, thất thoát thuế nước của công ty con. Giá nguyên vật liệu tăng cao, giá hàng hóa giảm gây ra cuộc chiến giá cả. Còn công ty mẹ thì tìm được một lợi nhuận lớn.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chống chuyển giá: Những bài học từ Trung Quốc
Các chuyên gia kinh tế
trên thế giới cho rằng những năm gần đây quản lý nguyên tắc giá thị trường
cực kỳ khó khăn; các nước trên thế giới có những vấn đề lớn về hoạt động
chuyển giá; các công ty đa quốc gia có sự tham gia của các chuyên gia hàng
đầu về giá chuyển nhượng từ khắp nơi trên thế giới và lập kế hoạch kỹ lưỡng
nhằm giảm thiểu tiền thuế; mọi giao dịch phát sinh trong doanh nghiệp (mua,
bán hàng, bán tài sản vô hình, phí bản quyền, phí quản lý, chi phí tài chính,
phân tán rủi ro, ngoại hối, bản hiểm…) đều có khả năng là giao dịch liên kết.
Theo thông lệ quốc tế,
chuyển giá được hiểu là “việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa,
dịch vụ được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới
không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp của các công
ty đa quốc gia trên toàn cầu. Để làm được điều này, công ty đa quốc gia
thường nắm bắt và vận dụng những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc
gia, các ưu đãi trong quy định thuế để xây dựng và áp dụng một chính sách về
giá giao dịch nội bộ trong tập đoàn
. Theo đó, giá chuyển giao giữa các thành viên trong nội bộ tập đoàn có thể được định ở mức “cao hay thấp” tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch này. Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau. Như vậy, cần hiểu hành vi chuyển giá theo một nghĩa rộng hơn, đó là hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết. Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do đó, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao. Động cơ của hành vi chuyển giá, không gì khác, chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại
. Theo đó, giá chuyển giao giữa các thành viên trong nội bộ tập đoàn có thể được định ở mức “cao hay thấp” tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch này. Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau. Như vậy, cần hiểu hành vi chuyển giá theo một nghĩa rộng hơn, đó là hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết. Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do đó, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao. Động cơ của hành vi chuyển giá, không gì khác, chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại
Đánh giá tác động của
hoạt động chuyển giá đối với quốc gia cho thấy: hoạt động chuyển giá diễn ra
dưới dạng định giá cao các yếu tố đầu vào nhằm rút ngắn thời gian thu hồi
vốn của công ty mẹ, dẫn đến các luồng vốn có xu hướng chảy ngược ra khỏi
quốc gia tiếp nhận đầu tư; hành vi chuyển giá này sẽ làm thay đổi cơ cấu vốn
của nền kinh tế quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư, dẫn tới sự phản ánh sai
lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức
tranh kinh tế không trung thực. Trường hợp, quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu
tư có mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc loại thuế tương đương
với thuế thu nhập doanh nghiệp thấp (thường được gọi là thiên đường thuế)
thì các công ty sẽ có lợi thế về số thu thuế thông qua chuyển giá. Tuy nhiên,
lợi thế này không bền vững khi mà các quốc gia khác có liên quan tăng cường
các biện pháp quản lý về giá chuyển nhượng. Đây là nguyên nhân dẫn tới khủng
hoảng kinh tế tại các thiên đường thuế này. Do có lợi thế về nguồn vốn đầu
tư dồi dào, các công ty đa quốc gia dễ dàng thôn tính các công ty trong nước
thông qua các chiêu thức quảng cáo và khuyến mại lớn dẫn tới hậu quả là lũng
đoạn thị trường. Các công ty trong nước không đủ tiềm lực tài chính để cạnh
tranh nên dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải thay đổi ngành nghề, sản phẩm
kinh doanh. Khi đó, các công ty đa quốc gia dần trở nên độc quyền, thao túng
thị trường trong nước, độc quyền kiểm soát giá cả và hậu quả là các quốc gia
này sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô và
không thể thúc đẩy các ngành sản xuất nội địa phát triển, thiệt hại cho
người tiêu dùng. Sự phụ thuộc kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư vào các
công ty đa quốc gia này sẽ kéo theo sự chi phối về chính trị. Các hành vi
chuyển giá chính thường gặp: Một là, chuyển giá thông qua chuyển giao tài
sản hữu hình. Hai là, chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản vô hình, bao
gồm: chuyển giao đối với tài sản vô hình hình thành từ hoạt động nghiên cứu
phát triển và hoạt động marketing; chuyển giao tài sản vô hình là những bí
quyết sản xuất, kinh doanh. Ba là, chuyển giao quyền sáng chế (đóng góp cho
quá trình hình thành, duy trì và phát triển tài sản vô hình). Bốn là, chuyển
giá thông qua cung ứng dịch vụ. Năm là, chuyển giá thông qua hoạt động tín
dụng…
Thời gian qua, chính
sách đối với hoạt động chuyển giá ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích
cực, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định. Học tập kinh nghiệm một số
nước trong việc xây dựng các quy định pháp luật về chống chuyển giá và thực
tiễn đã thành công chống chuyển giá là điều cần thiết với Việt Nam. Trong
khuôn khổ bài viết, tác giả xin giới thiệu những kinh nghiệm của Trung Quốc
trong hoạt động chống chuyển giá.
Nhìn lại, quá trình xây
dựng Luật Thuế Trung Quốc và Thuế chống chuyển giá, Trung Quốc cũng phải
trải qua một giai đoạn khá dài. Trung Quốc ba lần cải cách lớn về chính sách
thuế: năm 1950, xây dựng chế độ thuế mới (gồm 18 loại thuế); năm 1958, đơn
giản hóa chế độ thuế, còn 14 loại thuế; năm 1977, chính sách thuế lại được
cải cách; theo đó, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không chỉ đóng thuế tiêu thụ
và thuế kinh doanh, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) mà DNNN còn phải nộp
lãi của quá trình sản xuất kinh doanh. Năm 1984 và năm 1994 chính sách thuế
lại được điều chỉnh. Thời kỳ này, Trung Quốc đa dạng nguồn tài chính, công
cụ thuế được tăng cường, thuế chiếm tỷ lệ cao trong thu ngân sách. Cùng với
sự gia tăng đầu tư của các công ty đa quốc gia tại Trung Quốc và sự phát
triển tập đoàn hóa, quốc tế hóa của các công ty trong nước, hiện tượng công
ty Trung Quốc lợi dụng các công ty có liên quan trốn thuế xuyên quốc gia
ngày một tăng. Việc chống trốn thuế quốc tế, xác định hợp lý định giá chuyển
nhượng giữa các công ty có liên quan, đã trở thành vấn đề mới cấp thiết cần
giải quyết của thuế vụ Trung Quốc. Trung Quốc đã ban hành một loạt Luật,
chính sách thuế thúc đẩy kinh tế - xã hội Trung Quốc phát triển; đồng thời
xây dựng nền kinh tế thị trường cạnh tranh công bằng và minh bạch. Hiện
Trung Quốc dựa vào một số căn cứ pháp lý để xử lý vấn đề về chuyển nhượng
định giá:
- Luật Quản lý trưng thu
thuế Nhà nước nước Cộng hòa nhân dân (CHND) Trung Hoa, sửa đổi ngày
28/4/2001 tại kỳ họp lần thứ XI, Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân
toàn quốc lần thứ IX.
- Nguyên tắc thực hiện
Luật Quản lý trưng thu thuế Nhà nước nước CHND Trung Hoa (Quốc vụ viên công
bố ngày 7/9/2002).
- Luật Thuế doanh nghiệp
Nhà nước nước CHND Trung Hoa (tại kỳ họp lần thứ V, Đại hội đại biểu nhân
dân toàn quốc lần thứ X thông qua ngày 16/3/2007).
- Điều khoản thực hiện
Luật Thuế doanh nghiệp nhà nước nước CHND Trung Hoa (Quốc vụ viện công bố
ngày 06/12/2007).
- Biện pháp điều chỉnh
thuế đặc biệt, Tổng cục Thuế quốc gia Trung Quốc căn cứ vào quy pháp và hiệp
định trưng thu thuế quốc tế có hữu quan (công bố ngày 28/01/2009).
Ngoài ra, còn có những
quy định khác như: quy định do Chính phủ quy định theo Luật; quy định của
bộ, ngành (Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Hải quan…) căn cứ quy định của Luật
ban hành; quy định của địa phương, do Hội đồng nhân dân các cấp thông qua
theo luật định; các văn bản của khu tự trị do HĐND khu tự trị ban hành; quy
định của chính quyền địa phương do UBND thành phố, khu tự trị ban hành. Đến
năm 2013, Trung Quốc cùng 99 quốc gia ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần,
trong đó 96 quốc gia đã thực hiện hiệp định.
Trong đó quan trọng nhất
là Luật chống chuyển giá tại Trung Quốc, được xây dựng trên cơ sở các Luật,
chính sách về thuế nêu trên và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Trung
Quốc và các nước trên thế giới. Nội dung chính là:
Thứ nhất, Nguyên tắc cơ
bản trong giao dịch, Luật chống chuyển giá quy định: “Đối với các giao dịch
có liên quan giữa các công ty đa quốc gia, cơ quan quản lý thuế Trung Quốc
có quyền xác định mức thuế hợp lý đối với các giao dịch đó”. Quy định này áp
dụng đối với mọi giao địch giữa các công ty, tập đoàn đa quốc gia trong các
hoạt động tài chính, kinh doanh, tiêu thụ dưới mọi hình thức trực tiếp hay
gián tiếp hay cả đối với bên thứ ba. Nguyên tắc áp dụng một cách công bằng
giữa các giao dịch, thông qua biện pháp: so sánh ngang bằng, tái tiêu thụ,
giá thành, lãi ròng, tách lợi nhuận, giao dịch độc lập. Việc xác định các
bên liên quan trong thực tế giao dịch thường xảy ra trường hợp: báo cáo tài
chính, quản lý số dư sai; lập kế hoạch thuế, nghĩa vụ nộp thuế sai; tránh sự
quản lý ngoại hối, chuyển tài sản ra bên ngoài; vi phạm chính sách quản lý
các bên liên quan... Tại Điều 5 của Nguyên tắc thực hiện Luật Quản lý trưng
thu thuế Nhà nước quy định: “Các hoạt động giao dịch trực tiếp hay gián tiếp
giữa các bên hay đối với bên thứ ba có liên quan đến quyền lợi đều là đối
tượng có liên quan trong luật thuế”. Và tại Biện pháp điều chỉnh thuế đặc
biệt (Tổng cục Thuế quốc gia Trung Quốc năm 2009), những hoạt động giao dịch
giữa các doanh nghiệp và cá nhân được định nghĩa như sau:
- Quan hệ cổ quyền: có
25% cổ phần trở lên hoặc khống chế 25% cổ phần trở lên đối với bên thứ ba
hoặc thông quan bên trung gian có 25% cổ phần trở lên.
- Quan hệ tiền vốn: tiền
vay trên 50% vốn sở hữu hoặc khoản vay trên 10% số tiền được bảo lãnh.
- Quan hệ quản lý: có
trên 50% thành viên HĐQT do công ty khác cử đến và đại diện cho công ty đó;
hoặc một thành viên có quyền khống chế được bên liên quan ủy thác, hoặc có
quá bán số thành viên của cả hai bên (bao gồm cả thành viên HĐQT và Giám
đốc) hoặc một đại diện cao cấp do bên thứ ba ủy thác.
- Quan hệ kinh doanh:
một bên tiến hành sản xuất kinh doanh buộc phải được sự đồng ý của bên kia
về sở hữu trí tuệ, kỹ thuật công nghiệp mới được coi là đủ điều kiện hoặc
một bên kinh doanh dưới sự chỉ đạo của bên kia.Cung cấp lao động theo yêu
cầu của bên kia. Kinh doanh và giao dịch theo yêu cầu của bên kia, hoặc có
quan hệ về quyền lợi giữa hai bên, tuy chưa tới mức quy định tại quan hệ cổ
quyền
- Quan hệ khác: các bên
có quyền lợi về kinh tế, có quan hệ thân thuộc, gia tộc, gia đình.
Thứ hai, Quản lý hoạt
động chuyển giá, theo Luật Thuế doanh nghiệp nhà nước, Điều 41 quy định:
Những giao địch không phù hợp quy định, cơ quan quản lý có quyền điều chỉnh
thuế, giá. Khi tính thuế theo phương thức độc lập. Điều 110 quy định: nguyên
tắc giao dịch độc lập được nêu trong luật là nguyên tắc giao dịch trên cơ sở
công bằng mà không có bất kỳ sự ràng buộc nào. Phương pháp quản lý trong
Luật: Phương pháp so sánh là phương pháp được định giá trên cơ sở khách
quan, công bằng; Phương pháp giá bán lại là phương pháp định giá cho bên
khác một cách khách quan; Phương pháp giá thành, là phương pháp định giá
trên cơ sở hợp lý các chi phí và lợi nhuận; Phương pháp tính lãi sạch là
phương pháp đánh giá lợi nhuận khách quan giữa các bên mà không chịu sự ràng
buộc nào; Phương pháp tách lợi nhuận là phương pháp chi lợi nhuận và gánh
rủi ro hợp lý giữa các bên; Phương pháp phù hợp giao dịch độc lập khác (có
tính linh hoạt, đôi khi mang tính chủ quan…).
Thứ ba, Điều chỉnh hợp
lý và đàm phán quốc tế, Luật chống chuyển giá quy định: trong trường hợp
doanh nghiệp không cung cấp được những thông tin cần thiết, cung cấp giấy tờ
giả (hoặc có tẩy xóa sửa chữa), không phản ánh khách quan các hoạt động giao
dịch thì cơ quan quản lý thuế sẽ xác định mức độ nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật định (cơ quan thuế hoàn toàn có quyền điều tra). Đối với
các khoản truy thu trong năm, sẽ áp dụng thu lãi theo ngày nếu nộp chậm sau
ngày 01/6 của năm sau. Đối với các giao dịch bất hợp lý, cơ quan quản lý
thuế có quyền quản lý, điều chỉnh thuế trong suốt 10 năm kể từ khi doanh
nghiệp phát sinh nộp thuế…
Khi một bên trong giao
dịch có liên quan bị điều chỉnh chuyển giá thì đồng thời áp dụng với bên kia
tránh đánh thuế hai lần. Sau khi nhận yêu cầu của doanh nghiệp, Tổng cục
Thuế tiến hành đàm phán quốc tế. Khi có sự điều chỉnh đối với hoạt động
chuyển giá thì doanh nghiệp phải có đề nghị bằng văn bản, đưa ra trình bày
tại đàm phán để đưa ra việc điều chỉnh giá, đồng thời thông báo cho các bên.
Sau khi nhận được đề nghị chuyển giá, doanh nghiệp phải có văn bản đề nghị
thời gian thực hiện (trong khoảng thời gian Luật quy định), nếu vượt quá
thời gian Luật đã quy định mà doanh nghiệp chưa thực hiện, thì cơ quan thuế
sẽ không giải quyết. Khi thực hiện điều chỉnh chuyển giá có liên quan đến
việc trả lãi, phí thuế, phí bản quyền cho nước ngoài mà đã được khấu trừ
thuế thì không cần điều chỉnh. Khi có yêu cầu điều chỉnh giá, Tổng cục Thuế
cần có kế hoạch để các bên tham gia đàm phán quyết định. Kết quả điều chỉnh
sẽ do Tổng cục Thuế thông báo tới doanh nghiệp bằng văn bản. Không được khấu
trừ lãi khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, không được khấu trừ cổ tức khi
tính thuế.
Trên thực tế, doanh
nghiệp thường bị chú ý điều tra chống chuyển giá là: có tổng mức giao dịch
lớn và có nhiều giao dịch; lỗ một thời gian dài hoặc lãi rất ít mà vẫn mở
rông kinh doanh, thị trường; lãi thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp cùng
loại (trong khủng hoảng kinh tế, lãi của doanh nghiệp không cách biệt quá
lớn); doanh nghiệp có sự biến động, thay đổi; xuất xứ của nguyên vật liệu
(nhập các nơi khác, tỷ lệ thuế khác…); thường xuyên không chịu cung cấp tài
liệu, giấy tờ theo quy định hoặc cung cấp không đầy đủ …
Thứ tư, Biên bản xác
định giá thành, theo quy định của Luật việc tính giá thành với các bên liên
quan theo phương thức giao dịch độc lập, ký biên bản xác định giá thành. Khi
xác định giá thành, cần tính đến lợi nhuận kỳ vọng, gửi văn bản tới cơ quan
thuế theo quy định. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày biên bản có hiệu lực, cơ
quan thuế kiểm tra tính chính xác giao dịch độc lập, báo cơ quan cấp trên
xem xét theo trình tự: theo biên bản có thể khấu trừ; những khấu trừ có liên
quan đến bồi hoàn thì khấu trừ trong thuế TNDN tại năm đó; đối với tài sản
vô hình thực hiện theo quy định có liên quan; đối với biên bản xác định giá
thành đều phải cung cấp cho cơ quan thuế trước ngày 20/6 năm sau. Nếu vi
phạm các quy định sẽ không được khấu trừ thuế. Trường hợp, Luật quy định
không được khấu trừ là: không minh bạch; không phù hợp phương thức định giá
độc lập; không tuân thủ quy định đối chứng; không tuân thủ những quy định,
không cung cấp đầy đủ tư liệu tạo nên giá thành…
Thứ năm, Định giá dự
kiến, Luật chống chuyển giá quy định: các doanh nghiệp có thể đăng ký giá dự
kiến đối với cơ quan thuế, sau khi xem xét đánh giá bàn bạc đi đến thống
nhất xác định giá sơ bộ. Kế hoạch được xây dựng theo nguyên tắc giao dịch
độc lập cho tương lai, sau khi có đơn đề nghị định giá trình cơ quan thuế,
hai bên sẽ tiến hành bàn bạc để xác định. Việc định giá dự kiến cần trải qua
sáu công đoạn: chuẩn bị đàm phán, chính thức xin phép, đánh giá kiểm định,
đàm phán, ký kết, quản lý. Tổng cục Thuế có Thông tư 1172 (năm 2005), yêu
cầu các địa phương chú ý tính hiệu quả, không chạy theo số lượng, chú ý đến
lĩnh vực trọng điểm và phải có đủ các yếu tố sau mới được thông qua giá dự
kiến: doanh thu đạt 40 triệu RMB (Nhân dân tệ) trở lên; báo cáo đúng quy
định; bảo quản, cung cấp đầy đủ tài liệu theo quy định. Đối tượng nộp thuế
chủ động làm việc với cơ quan thuế; xác định giá có thể kéo dài từ 3 - 5
năm, hết hiệu lực tiếp tục đàm phán xác định giá mới (nhưng không quá 90
ngày). Doanh nghiệp có thể lựa chọn cơ quan thuế để bàn bạc về xác định giá
của mình; trong khi thực hiện, các cơ quan thuế vẫn căn cứ trên tình hình
thực tế kết hợp kinh nghiệm để đảm bảo thành công cho xác định giá.
Thứ sáu, Quy định đối
với doanh nghiệp chịu sự chỉ đạo của nước ngoài: những công ty hoạt động
trên lãnh thổ Trung quốc mà bị khống chế từ nước ngoài, phải nộp mức 25%
thuế thu nhập. Nội dung khống chế gồm: những công dân Trung Quốc giữ 10% cổ
phần trở lên đều có quyền biểu quyết; nắm giữ trên 50% cổ phần có quyền
quyết định hoàn toàn; đối với công ty liên doanh hoạt động tại Trung Quốc
hoặc công ty Trung Quốc nắm giữ cố phần tuy chưa đạt như quy định trên thì
quyền hạn được thực hiện tùy theo số cổ phần, tiền vốn, kinh doanh hay tiêu
thụ sản phẩm… Theo Điều 45 của Thông tư 37 của Tổng cục Thuế thì: nếu công
ty Trung Quốc chứng minh được số cổ phần của mình tại công ty nước ngoài,
thì số tiền đó được coi như phần cổ tức của công ty Trung Quốc; nếu chứng
minh được số cổ phần tại công ty nước ngoài và thỏa mãn những điều: tại các
quốc gia và khu vực có số thuế đóng cao, hoạt động có hiệu quả, lợi nhuận
năm thấp hơn 5 triệu nhân dân tệ thì công ty Trung Quốc được coi như cổ tức
cùng kỳ của công ty đó. Cơ quan thuế cần xem xét các báo cáo thuế, nếu phù
hợp như quy định tại Điều 45 thì thu thuế theo quy định hiện hành. Nếu có
chênh lệch trong đóng thuế TNDN của công ty Trung Quốc thì được coi số tiền
chênh lệch đó là cổ tức của công ty Trung Quốc tại liên doanh; tính vào số
thuế TNDN mà cổ đông đã đóng tại liên doanh nước ngoài. Những khoản thuế đã
nộp tại nước ngoài thì không tính là lợi nhuận cùng kỳ của công ty Trung
Quốc. Đầu tư tại nước ngoài của công ty Trung Quốc không thuộc đầu tư trong
nước và những quy định có liên quan đến liên doanh thì xử lý thuế theo quy
định.
Thứ bảy, Quy định thuế
đối với trường hợp mua nợ. Mua nợ là đầu tư vào các khoản và lãi nhằm bồi
thường về tài chính đối với bên liên quan; bao gồm: đầu tư vào các khoản nợ
của bên thứ ba không thuộc các bên có liên quan; bên thứ ba đầu tư vào khoản
nợ của bên liên đới trong liên doanh; bên thứ ba gián tiếp có quyền sở hữu
khoản nợ đó. Khi khai báo thuế, lợi nhuận của liên doanh chi cho các bên
liên quan, không được vượt quá những quy định (i và ii) thì được khấu trừ
tại năm, không được chuyển sang năm sau. Những lợi nhuận chi cho các bên
liên quan được tính như sau: (i) Đối với công ty tài chính tỷ lệ 5:1 (5 là
vốn vay, 1 là vốn chủ sở hữu; khi vốn vay vượt quá 5 lần tiền vốn chủ sở hữu
thì không được khất trừ, nếu không phải có đầy đủ tài liệu, chứng chứng hợp
pháp); (ii) Đối với công ty khác thì tỷ lệ là 2:1.
Nếu có đủ tài liệu chứng
minh công ty chấp hành đầy đủ nghĩa vụ thuế và giao dịch phù hợp với giao
dịch độc lập theo quy định hoặc mức thuế phải nộp không cao hơn với các bên
liên doanh trong nước, khoản chi thực tế cho bên liên quan trong nước thì
được khấu trừ khi tính thuế. Doanh nghiệp đồng thời thực hiện cả hai lĩnh
vực tài chính và kinh doanh, khoản chi thực tế cho bên liên quan trong nước
sẽ được tính theo phương pháp hợp lý; nếu không được tính tách riêng hợp lý
thì sẽ được tính theo tỷ lệ của doanh nghiệp khác có liên quan. Trường hợp,
nhà đầu tư không nộp đủ số vốn đầu tư theo cam kết trong thời gian quy định,
khoản vay nước ngoài phát sinh chi phí lãi, có chênh lệch với mức phải nộp
mà không thuộc khoản chi hợp lý của công ty thì do nhà đầu tư đảm nhiệm,
không được khấu trừ vào thuế TNDN.
Thứ tám, Những điều
khoản chống trốn thuế. Doanh nghiệp căn cứ vào những quy định không phù hợp
để hạ mức thuế phải nộp, cơ quan thuế sẽ điều chỉnh. Khái niệm “không phù
hợp” là những hành vi có ý đồ vi phạm luật: giảm, miễn trừ, kéo dài hoặc
tránh những mục khác phải nộp, tăng mục được trả lại, hoàn thuế hoặc những
khoản có lợi đối với người hưởng; bao gồm hành vi giao dịch công khai hoặc
mờ ám trong thực hiện hợp đồng, hiệp định, kế hoạch, tìm hiểu, cam kết, bảo
lãnh hoặc nhưng hành vi giao dịch khác. Những hành vi này cần hội đủ ba điều
kiện sau: (i) tổ chức dàn xếp một hay hàng loại hành vi giao dịch; (ii) có
hành vi thu lợi nghĩa là giảm mức nộp thuế; (iii) vì mục đích duy nhất hay
chủ yếu là giảm thuế TNDN. Nếu hội đủ cả ba điều kiện trên được coi là có
hành vi vi phạm. Cơ quan thuế có quyền điều chỉnh, hủy bỏ lợi nhuận do giao
dịch mang lại, đồng thời xác định lại mức thuế. Cơ quan thuế tiến hành điều
tra đối với hành vi trốn thuế nhằm hoạt động chuyển giá khi phát hiện có dấu
hiệu: lạm dụng ưu đãi; lạm dụng hiệp định thuế; lạm dụng hình thức công ty;
lợi dụng xuất xứ hàng hóa và hành vi khác. Cơ quan thuế trước khi tiến hành
điều tra cần gửi công văn cho doanh nghiệp. Trong 60 ngày doanh nghiệp phải
cung cấp toàn bộ giấy tờ theo yêu cầu. Nếu không nộp hoặc nộp không đủ, cơ
quan thuế sẽ tiến hành điều chỉnh thuế trên cơ sở thông tin của mình và gửi
thông báo tới doanh nghiệp; đông thời khi tiến hành điều tra phải báo cáo
Tổng cục Thuế.
Thứ chín, Báo cáo liên
quan, báo cáo tình hình kinh doanh và khai báo thuế thì nộp kèm theo toàn bộ
hồ sơ giấy tờ giao dịch đối với bên liên quan theo yêu cầu của cơ quan thuế.
Tài liệu gồm: quy định về giá, chi phí, cách tính và thuyết minh đầy đủ về
tài liệu; tài sản, sử dụng tài sản, sử dụng lao động, giá bán cuối cùng; tài
liệu về giá, phương thức tính giá; tài liệu giao dịch, phương thức kinh
doanh trong mọi hoạt động giao dịch giữa các bên. Đối với doanh nghiệp thành
lập tại Trung Quốc, có trụ sở hoạt động tại Trung Quốc khi khai báo thuế cần
nộp “Báo cáo tài chính năm theo quy định” và các tài liệu: báo cáo giao dịch
liên quan, báo cáo tiêu thụ, báo cáo lao động, tình hình tài sản vô hình,
tài sản cố định, chuyển khoản, sử dụng vốn, đầu tư ra bên ngoài, chi đối
ngoại; nếu gặp khó khăn cần kéo dài thì áp dụng theo hướng dẫn chi tiết của
Luật quản lý trưng thu…
Theo quy định, có thể
phạt tới 10.000 nhân dân tệ đối với những trường hợp không chấp hành giao
nộp tài liệu theo yêu cầu; trường hợp cố tình, mức phạt tới 50.000 nhân dân
tệ; khi truy thu số thuế cần nộp và phải nộp số tiền lãi là 5%. Đối với
những doanh nghiệp không nộp kịp thời các tài liệu theo yêu cầu có thể bị áp
dụng mức thuế cao hơn. Trường hợp không khai báo về giá thị trường đúng hạn
phạt 2.000 nhân dân tệ và có thể lên đến 10.000 nhân dân tệ trong trường hợp
nghiêm trọng..
Việt Nam đã có nhiều nỗ
lực chống chuyển giá cả trên phương diện pháp lý, cũng như thực tế. Chống
chuyển giá đã được đề cập ngay từ Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế
đối với nhà đầu tư nước ngoài; được bổ sung và nhấn mạnh trong các Thông tư
89/1999/TT-BTC; Thông tư 13/2001/TT-BTC; Thông tư 05/2005/TT-BTC; Thông tư
117/2005/TT-BTC; Thông tư 66/2010/TT-BTC; Thông tư 71/2010/TT-BTC… và ngày
15/02/2012, Tổng cục Thuế đã thành lập Tổ Quản lý thuế đối với hoạt động
chuyển giá trực thuộc Tổng cục Thuế. Bộ trưởng Bộ Tài chính đã có Quyết định
1250/QĐ-BTC gày 21/5/2012 phê duyệt chương trình hành động kiểm soát hoạt
động chuyển giá giai đoạn 2012- 2015. Về cơ bản, các quy định về xác định
giá thị trường đối với sản phẩm trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có
quan hệ liên kết được dựa trên hướng dẫn của OECD, phù hợp với thông lệ quốc
tế và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định tại hệ
thống văn bản pháp quy hiện hành của Việt Nam còn hạn chế quyền hạn của cơ
quan thuế, hình thức xử lý đối với doanh nghiệp có hành vi chuyển giá tránh
thuế còn quá nhẹ, quy định xác định giá thị trường chưa được linh hoạt đối
với một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết... Do vậy, chưa thực sự hạn
chế tối đa các hành vi chuyển giá của doanh nghiệp liên kết, quá trình thực
hiện của người nộp thuế cũng như cơ quan quản lý thuế chưa thực sự thuận
tiện, cụ thể như sau:
- Vấn đề chuyển giá chưa
được Luật hoá; việc áp dụng các phương pháp tính giá theo Thông tư 66/2010/TT-BTC
của Bộ Tài chính còn phức tạp, khó khăn.
- Việc quản lý giá giao
dịch chuyển giao sản phẩm giữa các bên liên kết chưa được quy định cụ thể
trong Luật thuế hiện hành. Chưa có hệ thống định mức bình quân theo ngành
nghề, hệ thống tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành, hệ thống giá... làm cơ sở
so sánh, ấn định thuế. Chưa có qui định việc lưu trữ sổ sách kế toán, hồ sơ
khai thuế dưới dạng dữ liệu (kết xuất dữ liệu từ phần mềm kế toán và các hồ
sơ khai thuế điện tử) để cung cấp thông tin phục vụ công tác thanh, kiểm tra
thuế.
- Mức độ xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế đối với các trường hợp chuyển giá còn quá nhẹ,
được quy định chung với các hành vi vi phạm khác về thuế (quy định tại Luật
quản lý thuế hiện hành, tại Nghị định số 98/2007/NĐ-CP và Thông tư số
61/2007/TT-BTC) mà chưa có hình thức xử phạt riêng, nghiêm khắc hơn nên chưa
đủ sức răn đe đối với doanh nghiệp có hành vi chuyển giá tránh thuế (như xử
phạt kê khai sai 10%, phạt chậm nộp 0,05%/1 ngày chậm nộp. Các trường hợp
chuyển giá dẫn tới số lỗ luỹ kế bằng hoặc vượt số vốn chủ sở hữu thì cũng
chưa có quy định về việc bắt buộc người nộp thuế phải giải thể hoặc không
được hoàn thuế GTGT…).
Từ hoạt động chống
chuyển giá của Trung Quốc, chắc chắn sẽ là những bài học kinh nghiệm quý giá
cho các nhà xây dựng chính sách và các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chống
chuyển giá của Việt Nam./.
Ths. Hà Hương Lan -
Trường BDCB Bộ Tài chính
Nhận xét
Đăng nhận xét